Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

Báo ứng hiện đời tập 1 - Hạnh Đoan biên dịch

Tập sách này bao gồm những mẩu truyện về nhân quả báo ứng của thời cận đại ở Trung Hoa. Những mẩu truyện tuy ngắn ngủi nhưng hàm chứa nghĩa lý về nhân quả báo. heo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, ... Tuy vậy, đối với những sự việc nhân quả báo ứng trải dài trong dòng thời gian câu chuyện nhân quả báo ứng hiện đời - Hạnh Đoan biên dịch Lời người dịch. Cuốn sách này được chia làm ba phần, phần một của cư sĩ Quả Khanh Người sống trên đời, nhất là Phật tử, muốn có đời sống thảnh thơi tiến bộ, chúng ta không thể nào coi thường nhân quả báo ứng.



 Ngày xưa, khi tôi còn trẻ thơ, ở cái tuổi học trò tập tểnh làm quen với vần quốc ngữ A, B, C. Mỗi lần tôi ăn cơm, mẹ tôi theo dõi chăm sóc lo cho tôi. Khi nào đà cơm vào miệng, lỡ có hạt cơm rơi rớt ra ngoài, mẹ liền ngọt ngào bảo : "Con ơi! Con nên nhặt lấy những hạt cơm rớt lên ăn đi con. Đừng bỏ mà mang tội. Kiếp sau sẽ bị quả báo ăn dòi". Mẹ tôi cũng thường căn dặn chị tôi: "Này con! Đừng phung phí đồ ăn. Khi nấu cơm, lúc rửa chén, con phải cẩn thận đừng để gạo rơi cơm rớt. Hạt cơm là hạt ngọc trời cho, phải khó nhọc lắm mới có được, không khéo quí tiếc giữ gìn thì đời sau sẽ phải bị làm người bần cùng nghèo đói đó con!".


 Những lời nói bao hàm ý nghĩa nhân quả luân hồi tội phước báo ứng này, không chỉ riêng được nghe thấy trên miệng mẹ tôi, mà bất cứ miền thôn quê chốn đô thị, nơi nào trên đất nước Việt Nam, chúng a cũng đều nghe thấy phát ra tự nhiên từ miệng các bà mẹ Việt Nam lam lũ chân lấm tay bùn. Vấn đề luân hồi nhân quả báo ứng đối với người Việt Nam quá đổi quen thuộc, nên ai cũng biết. Nhưng không mấy ai để ý nhiều đến đạo lý và tác dụng của nó đối với sự việc trên đời. Cũng như không khí rất cần cho sự sống. Thiếu không khí thì sự sống không thể tồn tại. Nhưng hằng ngày không mấy ai để ý đến đặc tính quan trọng của không khí đối với sự sinh tồn của vạn vật sinh linh. Tuy nhiên, ta cũng phải thừa nhận rằng, tư tưởng về nhân quả luân hồi của nhà Phật đã thấm sâu vào buồng tim lá phổi huyết quản thịt xương của mọi tầng lớp người dân Việt nói riêng, người Á Đông nói chung. Triết lý nhân quả luân hồi thấm sâu vào tâm thức người dân Việt Nam, như không khí thấm sâu vào tận thịt da, tràn qua buồng tim lá phổi xương tủy của mọi người, nuôi trọn kiếp sống.

NHAI XƯƠNG MÚT TỦY - BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI TẬP 1

Mùa hạ năm 1996, vợ một phú ông từ Đài Loan đến. Bà bị bệnh viêm xong mũi ngót mười mấy năm chưa khỏi, nên phải sang Đại Lục, lên Ngũ Đài Sơn xin bái kiến Hòa thượng. Cầu Ngài chỉ ra nguyên nhân căn bệnh. Nhân quả báo ứng hiện đời tập 1 - hạnh đoan biên dịch

Sư phụ hỏi: - Lúc bà kết hôn gia cảnh bên chồng không được tốt lắm?

- Dạ, đúng vậy! – Bà ta thưa

- Sau khi kết hôn sinh con đẻ cái nhiều, gia cảnh ngày càng tệ, đời sống rất chật vật gian khổ...

- Dạ, đúng vậy!

- Thỉnh thoảng bà đi chợ mua mấy con cá, nấu xong thì luôn đem món ngon nhất dâng cho mẹ chồng. Mình cá, đuôi cá cũng đem phân chia cho các con ăn. Còn lại xương đầu cá bà không đành quăng bỏ. Nên bỏ vào miệng nhai nát, mút tủy nó.

Sau này, gia cảnh dù giàu có rồi, nhưng tập quán cũ bà đã huân sâu nên vẫn tái diễn. Cho đến nay thì lúc ăn cá, bà vẫn thích nhai xương nuốt tủy nó, phải vậy không?

- Đúng thế, thưa Sư phụ. Bởi vì đã thành thói quen rồi, con thấy xương cá ăn rất ngon. 

Nhưng...thức con ăn là tam tịnh nhục ( thịt nằm trong ba điều: Mắt chẳng thấy người giết, tai chẳng nghe người giết, Chẳng phải là giết cho mình ăn) mà, chẳng phải nói là cho phép ăn được sao? – Bà có chỗ không hiểu nhên hỏi lại.

- Ăn tam tịnh nhục là cách giảng pháp dành cho người mới nhập môn theo Phật giáo. Bởi vì nếu bảo người bỏ ăn mặn liền, thì e rằng nhiều người không làm nổi. Vì vậy mới đề nghị họ không sát sinh. Ăn tam tịnh nhục - Chỉ là cách thức đức Phật phương tiện dẫn dắt chúng sinh – Tùy theo công phu tinh tấn không ngừng niệm Phật tụng kinh, mà tự nhiên họ không còn tơ tưởng tới chuyện ăn mặn nữa. Nếu nói rốt ráo thì ăn thịt chính là sát sinh! Bà cần phải sớm đoạn trừ và nghiêm trì giới sát mới đúng lý – Sư phụ giải thích.

- Sư phụ ôi, ăn xương cá, đầu cá mà cũng có tội ư? – Bà vẫn không hiểu, hỏi lại

- Thịt và xương - Đều là các phần trong thân thể động vật, và chúng ta thường dùng từ “ rút gân, lột da, nhai xương, nuốt tủy”, nói như thế cũng để hình dung diễn tả tâm trạng của người đang sân hận nữa. Phải biết động vật trong lúc bị ta sát hại. Lòng tràn đầy niềm kinh sợ trước cái chết đến gần và đối với người sát hại nó, cũng như rất căm hận người ăn nuốt nó. Bởi vì tất cả chúng sinh, thông thường ai cũng đều chấp vào thân thể của mình, rất yêu quý thân mình, cho rằng cái nhục thể bị ăn đó là của mình, vì vậy dù chết, thần thức hoàn toàn không chịu lìa xa thân thể, bất kể là thân đương sự bị băm vằm, nuốt sống, hay đã làm chín như quay, nướng, chưng xào...chỉ có bậc giác ngộ, những vị tu hành mới không chấp thân, còn kẻ tu kém, tình chấp cao, sân hận nhiều. Do vậy, mà dù đã chết, thần thức con vật khi thấy thân xác mình bị băm vằm xào nấu, nhai nuốt nó cũng vẫn thấy vô cùng thống khổ, đau đớn...

Do vậy khi người ăn thịt ra tay rút gân lột da động vật, nhai xương nuốt tủy, thậm chí lúc tàn sát động vật thảm thương, đâu phải chỉ vung đao là kết liễu xong nó? Mà thống khổ gieo cho con vật không ngừng gia tăng, nên lòng oán hận nó đối với ta rất sâu thâm.

Chính vì nguyên nhân này mà bà phải mang bệnh vào thân, bệnh hoạn chất chồng, và hay gặp cảnh họa vô đơn chí.

Vì vậy mà người tu hành tín thờ Phật, không nên ăn tam tịnh nhục, càng không thể ăn nội tạng động vật như tim gan phổi, mắt, lưỡi, óc, tủy... Đừng có ngu muội tin là ăn gì bổ đó, đừng cho rằng ăn như thế mới có công dụng đại bổ dưỡng.

Quý vị đâu biết rằng ăn nội tạng càng nhiều, là cùng các loài động vật gây oán thù càng sâu. Lâu ngày nội tạng trên thân mình phát sinh nhiều bệnh hiểm.

- Sư phụ, thế thì đáng sợ quá! Vậy bệnh viêm xoang của con có thể chữa lành không?

- Với điều kiện bà phải chân thành sám hối, thệ nguyện dứt hẳn ăn mặn, làm nhiều việc phúc thiện và cần phóng sinh cho nhiều vào.

- Nếu như mỗi ngày bà có thể tụng một bộ Kinh Địa Tạng, hồi hướng cho chúng sinh trong pháp giới, nhất định sẽ được cảm ứng lành. Phóng sinh thì phải thả chỗ nào cho cá dễ sống, không nên thả nó vào ao của người nuôi cá để chờ ăn thịt. Nên thả trong sông biển, ao hồ rộng lớn, để nó có thể thực sự đào sinh. Các loại điểu cầm, thú rừng cũng vậy, hãy thả nơi nào an toàn cho nó. Nếu như kinh tế khá, có thể phóng sinh ba ba và nhiều loài động vật khác, sẽ càng có nhiều công đức lớn, bù đắp lỗi sát ngày xưa.

Chúng nó có linh tính, không chừng đời nay cũng có thể báo đáp ân tình của bà, các báo đáp này chúng ta cũng thường thấy. Xong rồi, giờ bà đã có đủ niềm tin để giữ giới – Vĩnh viễn không sát sinh và vĩnh viễn không ăn mặn chưa hả? –

- Dạ được, trở về con nhất định làm theo lời Ngài dạy – Bà nói có vẻ kiên quyết – 

Nhai xương nuốt tủy có thể chiêu bệnh tật đến, đây là lẽ đương nhiên. Lần này, tôi được nghe Sư phụ thuyết kỹ, nên có ấn tượng rất sâu. Vì vậy đã cẩn thận ghi chép lại. Hy vọng được các pháp lữ chú ý xem và cẩn trọng để cùng thu hoạch lợi ích.

Riêng phần bà nhà giàu ở Đài Loan kia, về sau bệnh viêm mũi đã dứt hẳn triệt để, bà còn quay trở lại Ngũ Đài Sơn để kể lể nỗi niềm tri ân và tha thiết bái tạ Hòa thượng.

DÙI LỖ LẤY NHỌT - BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI TẬP 1

Cao tiên sinh tuổi hơn 40. Thể cách tráng kiện, làm nhân viên bảo vệ tại một công ty lớn. Ba năm trước, do hay vì bị nhức đầu, nên đi bệnh viện kiểm tra, mới phát hiện trong đầu có cục bướu đè dây thần kinh, dẫn đến nhức đầu. Thế là bác sĩ dùi một lỗ hổng trên đầu để lấy mụn nhọt ấy ra. Hai năm sau lại phát hiện trong đầu có một mụt to, bất đắc dĩ lại phẫu thuật lần nữa. Năm nay bác sĩ kiểm tra nói tại chỗ dùi lần trước lại mọc ra một mụt lớn hơn. Bác sĩ phán là lần này không thể dùi đầu được nữa, vì làm vậy sẽ nguy hiểm đến tính mạng.

Trong tình huống bó tay hết cảnh này, ông liền đến thỉnh cầu Hòa thượng Diệu Pháp khai thị.

Hòa thượng nói: - Ông ngày trước có công tác trên biển phải không? Do ông đã từng giết rất nhiều rùa, hơn nữa còn bắt rất nhiều cá sống to bự, đóng đinh trên ván rồi mới đánh vảy, moi ruột nó.

Đúng vậy, con từng đi hải quân ba năm, trường kỳ sống trên đại dương. Hằng ngày đều bắt cá ăn. Biển sâu nên cá đặc biệt to, có con dài hơn một mét, cá bự mà giãy dụa dữ quá, con liền dùng cây đinh to, đóng đầu nó dính trên ván, sau đó mới bắt đầu đánh vảy, moi ruột. Sư phụ, Ngài sao có thể nhìn thấy một đoạn quá khứ của con tài như thế?

Bởi vì, ngày xưa ông đóng đinh vào đầu cá, cho nên bây giờ ông bị bệnh cứ phải dùi đầu để chữa trị. Cá sống bị đóng đinh trên ván đau đớn giãy dụa, nó đang còn sống mà bị ông đánh vảy, mổ ruột, moi nội tạng...cảnh ấy cực kỳ tàn nhẫn. Vậy nên báo ứng hiện đời cũng đến với ông từng lần, từng lần một. E rằng trên đầu ông không chỉ khoan hai, ba lỗ mà thôi, nếu như bị chết liền thì tuyệt không đáng sợ. Đáng sợ là suốt năm phải triền miên bị thống khổ dày vò trên giường bệnh, sống không bằng chết, không được thiện chung.

Lời Hòa thượng nói như sấm động, lay người tỉnh dậy từ cơn mê.

- Sư phụ, Ngài thần thông quảng đại, xin hãy cứu đệ tử.
Sư phụ hiền hòa nói:

- “ Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Đến nay thì phải trả báo tội lỗi ngày xưa, chính ngươi buộc là kẻ phải tháo gỡ. Chỉ cần ông thành tâm sám hối, thệ dứt hẳn sát sinh, phát tâm ăn chay hẳn và niệm Phật thật nhiều, thì có thể chuộc được lỗi xưa.

Cao tiên sinh ngay hôm đó lập tức bắt đầu lễ Phật, tụng Kinh Địa Tạng, và tại Phật tự lập bài vị cầu siêu cho những loài ông đã giết. Mãi đến hơn hai năm sau lúc ông tạ thế ông đều luôn tụng kinh niệm Phật. Ông đã không còn bị khổ não hành hạ. Chỉ đáng tiếc là ông qua đời lúc chưa đầy 50 tuổi.

Niệm kinh bái Phật cố nhiên có thể giúp cho tiên sinh không bị thống khổ dày vò tiếp tục, nhưng do nghiệp sát của ông quá nặng, nên bị giảm thọ. Phật lực dù quảng đại, cũng không qua nổi nghiệp lực chúng sinh. Cho nên chỉ có thành tâm sám hối, nguyện đoạn nghiệp sát, không ăn đồ mặn tanh hôi, ngăn tuyệt nhân gieo tội, mới là căn bản cầu phúc, cầu thọ.

TRONG XƯỞNG CÓ GÌ, NHÀ TÔI CÓ ĐÓ - BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI - HẠNH ĐOAN

Hồng tiên sinh hơn 50 tuổi, là thợ máy làm trong xưởng cơ giới chính phủ. Một chiều nọ ông đi cùng lão cư sĩ đến bái kiến Sư phụ Diệu Pháp. Vừa vào cửa ông kiền cười ha hả chắp tay vái và cung kính khom mình ba lần trước Sư phụ, cũng không đơi mời ngồi, ông tự tiện ngồi xuống. 

Thoạt nhìn đã biết tính cách ông rất sảng khoái.

Sư phụ hỏi ông ta:

- Chẳng phải vì đau lưng nên anh mới đến đây sao?

Ông có chút kinh ngạc nói:

- Sư phụ Ngài thiệt là thần thông, con chưa nói Ngài đã biết cả.

Nói xong ông đứng dậy, vén áo chìa lưng ra:

- Sư phụ xem, đai bảo hộ lưng con nè.

Chỉ thấy dây lưng ông mang là một vòng ruột xe chế thành, rộng chừng 15 cm. Ông ngồi xuống nói tiếp:

- Con đeo ruột xe bảo vệ lưng đã gần 10 năm rồi, bác sĩ nói là cơ lưng bị hao tổn, uống thuốc, tiêm chích gì cũng vô hiệu, chỉ có thể nương vào thắt lưng tự chế này, nếu không có nó bảo hộ, lưng con khó mà thẳng nổi! Tất cả là do hồi trẻ con lao lực quá độ...

Ngừng một lát ông nói tiếp:

- Nghe bạn con nói, Ngài là một vị Bồ-tát sống, xin Ngài hãy cứu con. Ngài phải trị lành lưng cho con, rồi hằng ngày con sẽ thắp hương cúng lễ Ngài cho dù phải lễ lạy trăm lễ mỗi ngày, con đều làm.

Nói xong, ông lại chắp tay vái Sư phụ.

Hòa thượng Diệu Pháp cười cười nói:

- Thứ nhất, tôi không phải là Bồ-tát. Thứ hai tôi không phải là thầy trị bệnh. Nếu tôi mà là Bồ-tát, thì chúng ta còn có thể ngồi tại đây nói với nhau sao? – Còn như tôi mà có thể trị bệnh, thì tôi phải đến bệnh viện để làm nghề chẩn khám. Thực ra, bệnh ông tốt hay không, quyền quyết định ở nơi bản thân ông. Bởi vì, tháo chuông phải do người buộc tự tháo.

Bây giờ, tôi hỏi ông, nếu như bảo ông không hút thuốc, không uống rượu, không trộm cắp, không ăn mặn, ông làm được hay không?

- Chỉ cần bệnh con có thể lành, kêu con giữ giới gì con đều làm tất, nhưng con không phải trộm hay đạo tặc!

- Lưng ông ngoài cảm giác đau ra, có lúc còn cảm thấy bị sức ép rất nặng nề?

- Dạ, đúng, giống như là có mấy chục ký lô đè nặng trên lưng con vậy.

- Ông có lấy trong công xưởng các thứ như: sắt, bản lề, đinh, ốc, vít.., gì không? Có khi xách cả rương đem về nhà?

Ông nghe xong ngồi ngây người ra, lát sau gật đầu nói: 

Quả thật có việc này! Bởi con là thợ trong công xưởng, “ở hiên lầu trước được thưởng trăng mà”, thời buổi này có ai mà không lấy chút đồ của quốc gia làm của riêng? Như vậy mà gọi là trộm ư? Ngay cả trưởng xưởng của chúng con cũng lấy đồ đem về nhà kia kìa! – Ông Hồng phân trần biện bạch.

- Đem tài vật quốc gia về nhà làm của mình, không phải trộm thì là gì? Vậy ông đường đường chính chính lấy đồ mang về nhà ư? Hay là len lén bỏ đồ vào trong cà mèn cơm trống, rồi mắt trước mắt sau... đem ra khỏi xưởng. Có vậy không? – Hòa thượng nghiêm nghị chất vấn.

Câu hỏi này khiến ông Hồng sợ chết cứng. Ông mở to mắt nhìn sững Hòa thượng, nói không ra lời.

- Không chỉ thế, ông còn lấy kềm, tua vít, dây thép, lấy sắt thép trong xưởng về chế thành các vật dụng tư gia như: ống khói, ki hốt rác, bếp lò, đũa, kẹp gắp...

Ông Hồng đột nhiên ngắt lời Hòa thượng:

- Sư phụ, Ngài làm sao mà biết được?

- Thì chính chúng đang đè trên lưng khiến ông thẳng người không nổi đấy!

Tôi đột nhiên cảm thấy thư phòng giống như viện thẩm vấn, hào khí bừng bừng lúc tiến vào phòng ban nãy của ông Hồng đã biến thành ủ rũ tang thương, ông gắng gượng một cách đáng thương, nhỏ giọng nói:

- Con lấy đồ về tuyệt không phải cho mình con xài, cũng không cầm đi bán, đa số đều cho thân hữu láng giềng. Do công nhân lương thấp, dù sao cũng lấy đồ công của nhà nước, kể cả thủ kho cũng làm vậy. Đây vốn là việc đồng tình thông cảm, cùng hỗ tương nhau, là chuyện “ bất tuyên trong công xưởng”, nhưng con không biết đấy là trộm.

Vừa rồi Sư phụ nói, con nghe như sét nổ giữa trời quang, khiến tâm tư chấn động thức tỉnh. Thực là trời cao có mắt! Đồ công con lén lấy về Ngài biết hết trơn. Hơn nữa tất cả thứ đó giờ đều đè trên lưng con. Đây thực là “ác giả ác báo” mà.

Bao nhiêu năm nay con bệnh ngày càng nặng, té ra đồ con lén lấy ngày càng nhiều tạo thành. Hôm nay mới rõ: “ Muốn người đừng biết chi bằng mình đừng làm”. Câu này thiệt là đúng ghê! Con xin đảm bảo với Sư phụ, bắt đầu từ nay trở đi, con quyết nghiêm trì điều kiện của Ngài, không hút thuốc, không uống rượu, không ăn mặn, không trộm lấy tài vật quốc gia, ngày mai con sẽ đi thỉnh tượng Phật về thờ phụng, con rất hối hận vì mình tin Phật pháp quá trễ như thế này. Nếu không con đã chẳng làm điều xấu. Xin hỏi Ngài, con phải tụng đọc sách Phật nào?

Tôi thật không ngờ ông Hồng có tâm tỉnh giác cao như thế, nghe ông bày tỏ lòng ăn năng sám hối, nội tâm tôi tràn trề pháp hỷ. Ngó bộ Sư phụ cũng vui giống vậy, tôi nói:

- Tôi sẽ tặng cho ông vài sách Phật cho ông đọc trước, sau đó ông có thể đi chùa thỉnh kinh sách Phật về xem.

Ông cảm ơn rồi lại hỏi:

- Những vật trước đây con lấy trong công xưởng đem về, nay có thể quy ra thành tiền đem trả lại được không?

Hòa thượng nói:

- Ông nếu như đi trả như thế, phiền phức sẽ càng to. Hiện giờ trong tâm biết lỗi sám hối, tội nhờ vậy cũng tiêu trừ, nếu muốn hoàn nợ cho công xưởng, thì ông có thể “ lấy công chuộc tội”, ráng làm nhiều việc cống hiến cho công xưởng để bù đắp, đồng thời phải giải thích cho thân hữu hiểu để họ tránh lỗi này, để họ không còn tham chiếm tài sản quốc gia làm của riêng. Ông phải đem thân mình làm gương, giữ phẩm hạnh thanh cao trong sạch. Đây chính là biết nhận lỗi hối cải, đã biết thì phải thực hành, nhất định có thể đem công đức bù đắp lỗi xưa.

Lúc ra về, ông Hồng trang trọng đón nhận sách Phật, cung kính nói với Hòa thượng:

- Ngài hãy đợi xem nha, nếu như con không biết hối cải, thì rất có lỗi với Ngài!

Nửa tháng sau, ông Hồng tới chỗ tôi, vào cửa liền khấu đầu trước tượng Phật giữa nhà. Sau khi đứng dậy, ông vén y phục cho tôi xem, khoe dây bảo hộ lưng không còn nữa. Ông hớn hở nói:

- Hôm ấy từ đây về nhà, cảm thấy bệnh đã lành hơn phân nửa. Những gì Hòa thượng yêu cầu tôi đều tuân hành hết. Tôi đã lập bàn thờ Phật và tủ đựng kinh sách, đã thỉnh tượng Quan Thế Âm về sớm tối thắp hương lễ bái. Mỗi ngày đều xem kinh, kinh Phật giảng thật hay quá. Đến nay thì tôi tâm an, khí hòa, bệnh cũng lành rồi. Những ngày tháng này gia đình chúng tôi mừng vui giống như tết, thật là cảm tạ Hòa thượng biết bao.

Tôi nghe xong, trong tâm cũng vui lây theo ông. Hồng huynh quả là “ buông dao đồ tể thành Phật liền” vậy đó!

BỊNH “TRỜI CHO” - BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI - HẠNH ĐOAN BIÊN DỊCH

Đầu năm 1994, Giả tiên sinh, chồng Lý nữ sĩ bị bệnh ghẻ. Toàn thân anh nổi đầy ghẻ, vừa chảy mủ vừa nhức nhối khó chịu, đã chạy chữa khắp nơi đông tây y nhưng đều không thấy kết quả. nhân quả báo ứng hiện đời biên dịch Hạnh Đoan

Lý nữ sĩ gọi điện cho tôi, ngỏ ý chị muốn đưa chồng đến gặp Hòa thượng Diệu Pháp, nhưng lại ngại chồng mình toàn thân nổi ghẻ lở, không tiện gặp ai. Trong lòng hiện đang rất mâu thuẫn, do dự khó quyết.

Ai dè ba ngày sau, Lý nữ sĩ gọi điện đến, cao hứng báo tín cho tôi, bệnh lở loét của chồng chỉ trong một đêm miện ghẻ đã khô, thôi không chảy mủ nữa. Đây là kỳ tích kể từ hồi anh bị bệnh đến nay, chưa từng có được, nên chị rất phấn khởi, quyết định đưa chồng mình tới bái kiến Sư phụ.

Tối hôm đó Lý nữ sĩ cùng chồng đến. Tôi vừa gặp, thấy chồng cô cao một mét tám, thân hình cân đối, dung mạo anh tuấn, hào hoa, trông có vẻ là một nhân tài.

Hai vợ chồng vừa bước vào cửa đã hướng Hòa thượng Diệu Pháp hành lễ, khẩn cầu Ngài từ bi cứu giúp. Vừa ngồi xuống Lý nữ sĩ đã hỏi Sư phụ:

- Anh ấy trong một đêm ghẻ hết chảy nước, hiện giờ trên thân không còn lở lói, bệnh đỡ rất nhiều, việc này là thế nào? Xin Hòa thượng chỉ giáo.

Hòa thượng hỏi: - Con có từng đến chùa cầu Quan Thế Âm Bồ-tát phải không?

Lý nữ sĩ đáp:

- Nửa năm trước bệnh của anh ấy vô phương điều trị, con luôn đến chùa lạy Quan Thế Âm Bồ-tát cứu giúp, cầu cho bệnh anh sớm lành.
Sư phụ nói:

- Các con có thể tới đây, chính là nhờ con kiên trì bái Quan Âm Bồ-tát, nay được cảm ứng. Nói rõ là thiện căn các con sâu dày, cùng Phật có duyên. Thế nhưng chồng con bị bệnh là báo ứng riêng của bản thân, do y có phạm lỗi, làm sai, việc này chỉ có y tự mình nhận ra lỗi, chịu sám hối và thệ hứa vĩnh viễn không tái phạm, thì bệnh mới khỏi hẳn. Chư Phật Bồ tát luôn hy vọng người phạm lỗi biết cải tà quy chính.

Sau đó Sư phụ quay sang hỏi chồng Lý nữ sĩ:

- Anh thấy ta nói có đúng không?

Giả tiên sinh đáp lia lịa:

- Dạ đúng! Dạ đúng! Sư phụ nói không sai.

Hòa thượng tiếp lời:

- Mỗi cá nhân vì không biết Phật pháp, nên luôn phạm lỗi, thậm chí còn làm việc ác. Anh nếu như đối với những điều ác từng làm trong quá khứ, chân thành phát lộ sám hối, thì có lẽ bệnh sẽ lành.

Giả tiên sinh nói: - Con là một người nghĩa khí, việc hại người chưa bao giờ làm qua, ngay cả chuyện đánh mắng, gây gỗ cũng chưa từng phạm.
Sư phụ đành phương tiện nói nhỏ, mời Lý nữ sĩ ra ngoài, sau đó Ngài mới hỏi lần nữa:

- Xin Giả tiên sinh hãy tự kiểm xem mình có làm gì xấu không?

Nhưng Giả tiên sinh vẫn nói “chưa từng làm qau điều gì xấu”, vẫn tỉnh khô như không hề có việc gì, còn bảo Sư phụ nếu biết thì nói ra giùm.
Hòa thượng thở dài bảo:

- Ngươi bị bệnh nặng tới nước này mà vẫn còn chấp mê bất ngô! Hãy xem vợ ngươi vì ngươi mà chí thành lệ bái cầu Phật gia hộ cho kia! Giờ ta hỏi ngươi một việc - Giọng Sư phụ trở nên nghiêm khắc:

- Lúc ngươi hai mươi tuổi, có kết bạn với cô nương thấp hơn ngươi một chút, mặt trái xoan, da trắng, tóc thắt hai bím chăng?

Thấy ông Giả có vẻ bất ngờ, Sư phụ bồi thêm:

- Cô ta thường mặc cái áo hoa trắng mà ngươi tặng cho cô ta, có việc này không?

Vừa rồi bình tĩnh tự hào bao nhiêu thì bây giờ Giả tiên sinh mặt mày tái nhợt, hai mắt kinh hãi nhìn sững Hòa thượng, y lắp bắp:

- Cô ấy...là bạn học, theo con từ thành thị đến nông thôn, cùng đăng ký ở chung một hộ. Vì sao Ngài biết cô ấy?

- Vậy ngươi nói xem, quan hệ giữa đôi bên là thế nào?

- Dạ, chỉ chút tình cảm thoáng qua thời tuổi trẻ thôi...

- Thế ư? Không đơn giản như vậy, bởi vì ngươi đã dùng thủ đoạn lừa gạt, cưỡng đoạt cô ta, cuối cùng thì vứt bỏ cô ấy, đúng không? – Sư phụ nghiêm khắc hỏi.

Giả tiên sinh bị chấn động đến run người, ông vội quỳ xuống dưới chân Sư phụ, căng thẳng nói nhỏ:

- Xin Sư phụ vạn lần đừng để cho vơ con biết, con thực sự có yêu cô nương kia, sau đó...

- Sau đó còn mấy cô nữa, cũng bị ngươi dụ dỗ chiếm đoạt...Thậm chí kết hôn rồi, trước khi vướng bệnh, ngươi vẫn còn thông gian với vợ con người khác, đúng không? – Hòa thượng nghiêm nghị nói, vẻ gay gắt.
Lúc này, toàn bộ ác hạnh tà dâm của Giả tiên sinh trong nhiều năm nay đều bị vạch trần không sót tí gì. Mới vừa rồi anh còn cao giọng, dương dương tự đắc xưng mình là bậc quân tử, bây giờ thì thần sắc giống như phạm nhân, toàn thân run lẩy bẩy, anh phủ phục dưới chân Sư phụ không ngừng đập đầu van xin tha thứ.

- Sư phụ... con có tội! Con sẽ không dám thế nữa...

Tôi chứng kiến cảnh này, trong lòng cả kinh chấn động, thật là “ lưới trời lồng lộng, nhưng một khó thoát một cọng lông”. Cho dù tội gian dâm của anh không bị quốc pháp trừng trị, nhưng anh hiện giờ tim kinh thịt run giống như đang bị tuyên án tử, cả người hình như không còn hồn vía.

Sư phụ oai vệ giống hệt vị phán quan, dõng dạc ra lịnh:

- Trước tiên hãy đứng dậy và ngồi xuống đi, ngươi không những là hoang dâm vợ, con gái người, mà còn dối lừa phụ mẫu, phản bội vợ nhà, bất trung bất hiếu, là kẻ đạo tặc thật sự...Tất cả lỗi dâm vọng... không ác nào mà ngươi không làm, lại chẳng biết cải tà quy chánh, không bao lâu toàn thân ngươi sẽ lở loét thê thảm và chết. Chết rồi ắt đọa địa ngục không nghĩ!

Giả tiên sinh một lần nữ lại quỳ xuống, thiết tha hướng Sư phụ đập đầu, hành lễ, hứa từ rày về sau sẽ không dám làm việc xấu nữa. Ông khóc to cầu xin Ngài nhận ông làm đệ tử, phát thệ từ nay xin thay đổi, sửa lỗi, gột rửa tâm, nguyện làm một Phật tử chân chánh. Sư phụ khẽ gật đầu, biểu thị sự chấp nhận. Sau đó Ngài kêu người đi mời Lý nữ sĩ tới.

Sư phụ hướng vợ chồng họ giảng ngũ giới, thập thiện, dạy cách sám hối tiêu nghiệp.

Họ cung kính lắng nghe, mãi đến khi mặt trời ngã về tây, mới từ tạ ra về, ôm theo pháp hỷ sung mãn.

Từ lúc gặp Hòa thượng Diệu Pháp rồi, hai vợ chồng hàng ngày đều chí thành tụng kinh, không lâu thì Giả tiên sinh khỏi bệnh.

Lễ Phật, tụng kinh đã thành là công khóa hằng ngày của họ, hai vợ chồng đồng tâm đồng đức, thành một gia đình Phật hóa mỹ mãn.